Gracias!

Đọc 1 Sử ký 16:7-, 23-26.
“Hãy cảm tạ Chúa, cầu khẩn danh Ngài; Hãy truyền bá công việc Ngài giữa các dân.”  (1 Sử Ký 16:8)

Khi đến viếng Mexico, tôi ước mình biết nói tiếng Tây Ban Nha. Tôi có thể nói gracias (cám ơn), muy bien (rất tốt) và holal (xin chào). Nhưng chỉ có vậy thôi. Tôi cảm thấy chán nản chỉ nói được gracias với người trò chuyện hoặc làm việc gì cho mình.
            Nhưng chúng ta không bao giờ nên mệt nhọc dâng lên lời cảm tạ Đức Chúa Trời. Đa-vít hiểu biết tầm quan trọng của việc dâng lời cảm tạ. Sau khi trở thành vua Ít-ra-ên và xây lều cho Hòm giao ước (nơi Đức Chúa Trời ngự), ông lập một số người Lê-vi "Ngợi khen, cảm tạ, và ca tụng Đức Giê-hô-va" (1 Sử Ký 16:4). Nhiều người hằng ngày ở đó để dâng tế lễ và dâng lời cảm tạ Đức Chúa Trời (c.37-38).
            Đa-vít cũng trao cho A-sáp cùng anh em người một bài ca cảm tạ (1 Sử Ký 16:8-36). Thi Thiên của ông cảm tạ Chúa về việc Ngài đã làm: "Công việc Ngài làm giữa các dân tộc" (c.8), "Các công việc mầu của Ngài" (c.9), "Những phép lạ, và lời xét đoán của miệng Ngài" (c.12), cùng sự "Cứu rỗi" của Ngài (c.35). Bài ca của Đa-vít cũng ngợi khen về bản tính của Chúa: thiện lành, nhân từ, và thánh khiết (c.34-35).
            Giống như Đa-vít, chúng ta không bao giờ được mệt nhọc dâng lời cảm tạ Đức Chúa Trời về bản chất của Ngài và về mọi việc Ngài đã làm cho chúng ta. Hãy dành thì giờ hôm nay dâng tế lễ ngợi khen cho Ngài. - Anne Cetas.

(Sưu tầm)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét